Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 17)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 17)
Trong “Tích lũy công đức” chúng ta đã nói đến “tùy duyên tế chúng - cứu người nguy cấp”, đây là những trích dẫn của Liễu Phàm Tứ Huấn. Thứ sáu là “Hưng kiến đại lợi”. Phàm là có ích cho xã hội, có ích cho chúng sanh đều là lợi ích chân thật. Sao gọi là đại lợi? Điều này có quan hệ mật thiết với “cứu người nguy cấp” ở phần trước, hay nói cách khác, có thể cứu giúp chúng sanh nguy cấp là đại lợi; có thể phòng ngừa đủ thứ tai họa, đó là đại lợi. Giúp đỡ chúng sanh nhất định phải biết phòng ngừa khi họa chưa xảy ra. Làm thế nào mới thật sự biết phòng họa? Điều này cần trí tuệ, cần sự hiểu biết phong phú. Thế là chúng ta liền nghĩ đến giáo dục, giáo dục mới là lợi ích lớn nhất. Hãy nhìn từ trên thành quả của nó, thời xưa Khổng Lão Phu Tử lấy thân phận bình dân để làm giáo dục. Bản thân Ngài một đời trải qua đời sống vật chất tương đối thanh bần. Việc Ngài làm là việc tốt chân thật, không những ảnh hưởng đương đại, ảnh hưởng lịch sử, mà mãi cho đến ngày nay sức ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn tại; không những không bị mất đi, mà còn thấy bộ dạng có vẻ dần dần mở rộng. Quí vị thử nghĩ, làm thế nào mà có thể ảnh hưởng đến ngàn năm muôn đời? Không thấy việc thứ hai nào khác,

Trong “Tích lũy công đức” chúng ta đã nói đến “tùy duyên tế chúng - cứu người nguy cấp”, đây là những trích dẫn của Liễu Phàm Tứ Huấn.

Thứ sáu là “Hưng kiến đại lợi”.

Phàm là có ích cho xã hội, có ích cho chúng sanh đều là lợi ích chân thật. Sao gọi là đại lợi? Điều này có quan hệ mật thiết với “cứu người nguy cấp” ở phần trước, hay nói cách khác, có thể cứu giúp chúng sanh nguy cấp là đại lợi; có thể phòng ngừa đủ thứ tai họa, đó là đại lợi. Giúp đỡ chúng sanh nhất định phải biết phòng ngừa khi họa chưa xảy ra. Làm thế nào mới thật sự biết phòng họa? Điều này cần trí tuệ, cần sự hiểu biết phong phú. Thế là chúng ta liền nghĩ đến giáo dục, giáo dục mới là lợi ích lớn nhất.

Hãy nhìn từ trên thành quả của nó, thời xưa Khổng Lão Phu Tử lấy thân phận bình dân để làm giáo dục. Bản thân Ngài một đời trải qua đời sống vật chất tương đối thanh bần. Việc Ngài làm là việc tốt chân thật, không những ảnh hưởng đương đại, ảnh hưởng lịch sử, mà mãi cho đến ngày nay sức ảnh hưởng của nó vẫn còn tồn tại; không những không bị mất đi, mà còn thấy bộ dạng có vẻ dần dần mở rộng. Quí vị thử nghĩ, làm thế nào mà có thể ảnh hưởng đến ngàn năm muôn đời? Không thấy việc thứ hai nào khác, chỉ có giáo dục mới có thể tạo ra sự ảnh hưởng sâu xa như vậy.

Ở Ấn Độ xưa, Thích Ca Mâu Ni Phật là một tấm gương tốt, Ngài cũng dấn thân vào công tác giáo dục xã hội. Việc mà Khổng Tử với Phật Đà làm là giống nhau, sức ảnh hưởng không thể nghĩ bàn cũng như nhau. Sự việc này thật sự có thể giúp người đoạn ác tu thiện, phá mê khai ngộ; có thể tránh được tất cả tai nạn cho chúng sanh, thiên tai nhân họa đều có thể phòng ngừa. Tai nạn do con người tạo là có thể phòng ngừa, mọi người còn đồng ý, còn tin được, nhưng tai họa tự nhiên (hay còn gọi là thiên tai) cũng có thể phòng ngừa được sao? Nhà Phật nói, có thể! Tại sao vậy? Vì “y báo chuyển theo chánh báo”. Tâm người đoan chánh, hành vi đoan chánh thì môi trường sống của chúng ta cũng theo đó mà đoan chánh. Đây tức là nói rõ, thiên tai sẽ tùy theo tâm người mà sinh ra thay đổi. Chúng sanh không hiểu rõ đạo lý này. Trong tâm tư duy là niệm ác, việc tạo tác là hành vi ác thì sẽ chiêu cảm biết bao nhiêu thiên tai nhân họa. Cho nên, muốn khiến tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, biện pháp duy nhất chính là giúp chúng sanh phá mê khai ngộ. Vậy là chúng ta biết được, “hưng kiến đại lợi”, điều quan trọng nhất là giáo dục. Nhưng nền giáo dục này, chúng ta cũng phải dùng cách nói của người nước ngoài để nói, vì người đời thường hay mê tín “trăng của nước ngoài tròn”.

Thập niên 70, tiến sĩ Thang Ân Tỉ, người Anh nói: “Có thể giải quyết vấn đề của thế kỷ 21, chỉ có Phật pháp Đại Thừa và học thuyết Khổng Mạnh”. Đây là người nước ngoài nói. Chúng ta từ đây liền thể hội được, chỉ có nền giáo dục của Phật Đà và nền giáo dục của nhà Nho mới có thể tạo nên lợi ích lớn nhất, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn. Ai đi làm vậy? Người giác ngộ phải đi làm. Nếu không có năng lực làm, mà có mấy người chí đồng đạo hợp muốn học thì chúng ta phải dạy, dạy ba người, năm người, tám người hay mười người đều được. Chỉ cần bản thân thật sự hiểu rõ, toàn tâm toàn lực mà làm, quyết không cầu danh vọng lợi dưỡng, nhất định không cầu tự tư tự lợi.

Chúng ta nên biết, Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa tại vườn Lộc Uyển cũng chỉ dạy có năm người, khởi nghiệp từ năm tỳ kheo. Chân thật hành thiện với người, chân thật thành tựu việc tốt của người thì tự nhiên có những người chí đồng đạo hợp đến cùng nhau học tập. Thế Tôn năm xưa giáo hóa chúng sanh, số người dần dần càng ngày càng nhiều. Chúng ta đọc thấy ở trong kinh điển có 1.255 người, đây là lúc Thế Tôn dạy học, học trò đông nhất là có chừng đó người.

Chúng ta xem, tổ sư chúng ta dạy học nhiều đời đều là tấm gương tốt nhất của chúng ta, địa điểm dạy học không có nhất định. Nếu phải xây một đạo tràng, xây một ngôi trường học mới có thể dạy học thì quá chậm, là không kịp rồi. Tùy lúc tùy nơi nhiệt tâm chỉ dạy, còn về việc xây đạo tràng, xây trường học thì tùy duyên. Người hiểu biết thật sự, người giác ngộ thật sự thì không ai không ở trong đời tùy duyên qua ngày, cho nên tâm trạng của họ thanh tịnh, tự tại, điểm này rất quan trọng. Hơi có một chút xíu tâm phan duyên, có một mảy may tâm tự tư tự lợi thì bạn liền có lo nghĩ ngay. Quí vị phải biết, tạo nghiệp không chỉ ở hành vi, mà lo nghĩ cũng là tạo nghiệp, ý nghĩ cực kỳ vi tế cũng tạo nghiệp. Ở phần trước chúng ta đã học qua câu chuyện về Vệ Trọng Đạt, ý nghĩ cực kỳ vi tế là đã tạo nghiệp rồi. Nhất định đem ý nghĩ tự tư tự lợi trừ bỏ tận gốc, chỉ còn thuần túy một ý niệm lợi ích chúng sanh, ý niệm lợi ích xã hội, như vậy mới tốt, sự tu học của chúng ta trong đời này mới có thành tựu, tương lai khi ra đi, khi vãng sanh mới tự tại, mới thanh thản, bản thân thật sự đã làm chủ được. Chúng ta phải biết đạo lý này, phải hiểu rõ tại sao đây gọi là lợi ích lớn.

Thứ bảy là “Xả tài làm phước”.

Người thế gian không có ai không ưa thích giàu có. Đối với sự giàu có, luôn luôn cảm thấy càng nhiều càng tốt, chưa có lúc nào thỏa mãn. Tiền của tích chứa ở đó, nếu không biết dùng thì đó là tạo nghiệp, đó chính là tội lỗi. Ngày nay thế giới này còn có biết bao nhiêu chỗ khổ nạn, một số người dân vùng biên giới xa xôi đang đói khát, không có thức ăn, đồ mặc. Chúng ta ở đây thì cứ tích chứa, để người khác đang chịu đói. Bạn nói xem, cái bạn tu là phước hay là ác? Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta, “tài vật phải lưu thông mới có thể lợi ích tất cả chúng sanh”, cho nên tiền của tuyệt đối không nên tích chứa, dùng hết rồi thì tốt, không còn nữa là tốt nhất. Không có thì sao? Thanh tịnh rồi, hết việc rồi, bạn nói xem, điều đó tự tại biết bao. Dùng tiền của là nhân quả, càng xả càng nhiều, càng nhiều càng phải xả.

“Xả – Được”, ý nghĩa của hai chữ này chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Hai chữ này có hai tầng ý nghĩa ở trong đó. Thứ nhất là nói Nhân – Quả, “xả tiền của” là nhân; “được tiền của” là quả báo. Nhưng sau khi được tiền của rồi vẫn phải xả, phải đem cái mà bạn có được cũng xả sạch thì trí tuệ của bạn liền mở ngay. Cho nên, xả pháp được thông minh trí tuệ, xả cái gì được cái nấy. Nhân quả báo ứng không mảy may sai chạy. Chư Phật Bồ Tát vì chúng ta làm đủ dạng thị hiện, thị hiện nhiều nhất, rõ ràng nhất chính là bố thí, chính là xả. Trong chương hồi hướng thứ sáu của kinh Hoa Nghiêm, “Phẩm Thập Hồi Hướng”, chúng ta xem, không có cái gì là không xả, mọi thứ đều có thể thí xả, xả rất sạch sẽ, đó gọi là Phật, đó gọi là Bồ Tát, đó gọi là người chân thật giác ngộ.

Người mê thì lo được – lo mất, sống rất đáng thương. Cả đời sống trong cái vòng lẩn quẩn “Được – Mất” này, thật đáng thương biết bao! Phật Bồ Tát, ý nghĩ của “được – mất” không còn nữa, niệm niệm chỉ vì tất cả chúng sanh. Tôi thường nói, bạn giúp đỡ tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh phục vụ, nhưng mà tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, bạn vẫn chưa có buông xả, bạn vẫn chưa từ bỏ thì cái mà bạn tu được là phước báo thế gian, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Nếu như bạn đem bốn tướng xả hết, như trong kinh Kim Cang nói, không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả, phát tâm vì tất cả chúng sanh phục vụ, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn một cách vô điều kiện, thì đây là đại thánh xuất thế gian, người này chính là Phật Bồ Tát. Bất kể thân phận mà họ thị hiện là nam nữ, già trẻ, là thuộc loại ngành nghề nào đều là Bồ Tát hóa thân. Phải biết xả tiền của làm phước, tiền của không nên tích chứa, đừng sợ “tiền của của tôi xả hết rồi, ngày mai tôi sống thế nào đây?”. Đời sống ngày mai chắc chắn tốt hơn hôm nay. Bạn không tin thì biết làm sao? Bạn phải biết đạo lý này, phải biết cách làm như thế nào.

Thứ tám là “Hộ trì chánh pháp”.

“Chánh” và “Tà” là đối lập nhau. Tiêu chuẩn ở trong Phật pháp, nếu như tương ưng với chân tướng vũ trụ nhân sinh thì gọi là chánh pháp, trái ngược lại với chân tướng sự thật là tà pháp. Nhưng chân tướng sự thật không dễ hiểu. Những điều mà ở trong tất cả kinh luận Đại Thừa nói đều là chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sinh, phải thường xuyên đọc tụng. Sự tuy phức tạp nhưng cũng có cương lĩnh, có thể tìm ra đầu mối.

Kinh Kim Cang là bộ kinh điển mà nhiều người yêu thích nhất, ngôn ngữ đơn giản, đầy đủ ý nghĩa, tiện cho việc thọ trì đọc tụng nên mọi người ưa thích, nhà nhà đều hiểu. Trong kinh Kim Cang nói với chúng ta chân tướng sự thật là gì vậy? Chân tướng sự thật là không có bốn tướng (không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả). Nếu như bạn chấp trước “nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả”, vậy là sai rồi! Tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm chính là nguồn gốc của tất cả tà vạy. Phật nói với chúng ta, chân tướng sự thật là “mộng huyễn bèo bọt”, sự tồn tại của hiện tượng “như sương, như điện chớp”, bạn phải lĩnh ngộ nó một cách triệt để. Bạn thật sự hiểu nó rõ ràng, hiểu sáng tỏ thì bạn liền được đại tự tại. Tại sao vậy? Hiểu rõ lý rồi thì tâm liền an, chúng ta thường nói “tâm an lý đắc”. Tại sao tâm an vậy? Vì đạo lý hiểu rõ rồi, hiểu minh bạch rồi.

Trong “Tâm Kinh”, vừa mở đầu là “Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời”. Chữ “hành” đó là gì? Hành là hành vi đời sống. Hành vi đời sống ở trong trí tuệ rất sâu, chúng ta nói cách khác, đời sống mà Bồ Tát trải qua là đời sống trí tuệ cao độ, chính là ý nghĩa câu thứ nhất trong “Tâm Kinh”, là trải qua đời sống có trí tuệ cao độ, cho nên “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Đây là thông đạt, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh.

Phía dưới là “Độ nhất thiết khổ ách”. Đời sống của người thế gian là có khổ, có tai, có nạn. Phật Bồ Tát thì không có khổ, không có tai, không có nạn. Từ đó cho thấy, đau khổ, tai nạn là từ trong mê hoặc mà sinh ra; tự tại, chân lạc có được từ trong giác ngộ. Từ chỗ này chúng ta liền có thể thể hội được khái niệm chính xác của hộ trì chánh pháp. Ý nghĩa của câu này rất sâu, nó có quan hệ rất lớn đối với việc đối nhân - xử thế - tiếp vật, tu hành chứng quả trong đời sống chúng ta. Chúng ta nhất định phải dùng nhiều thời gian một chút để nói rõ.

Chúng ta đã giảng đến “Hộ trì chánh pháp”. Ý nghĩa của một câu này nói mãi không hết. Sự chỉ dạy của Thế Tôn trong 49 năm cũng là một câu này. Rốt cuộc, cái gì là chánh pháp? Hộ trì chánh pháp như thế nào? Phần trước đã báo cáo qua với quí vị, thuần là tâm thiện, thuần là tâm thương yêu, thuần là tâm lợi ích chúng sanh chính là chánh pháp. Có thể đem tâm này thực tiễn chính là công đức. Ở trong đây nếu có một mảy may ý nghĩ tự tư tự lợi thì liền đem chánh pháp phá hoại rồi, cũng là đem công đức hủy diệt. Đây là điểm chúng ta không thể không nhận thức, không thể không hiểu rõ. Trong kinh Phật thường nói tương ưng với nhất niệm, đây là chánh pháp. Nhất niệm chính là tự tánh, nhất niệm là chân tâm. Chân tâm là thuần thiện, là thuần yêu thương, là thuần lợi ích tất cả chúng sanh, tuyệt đối không có giả dối, cũng không có tạo tác.

Trong cửa nhà Phật, vừa bước vào là điện Tứ Thiên Vương. Tứ Thiên Vương chính là pháp biểu trưng, dạy chúng ta hộ trì chánh pháp.

Thứ nhất, Đông phương Trì Quốc Thiên Vương.

Phương Đông là bắt đầu, là nơi mặt trời bắt đầu mọc, cũng chính là nói hộ trì chánh pháp bắt đầu từ Hộ Quốc Thiên Vương, chúng ta thử nghĩ hàm nghĩa của tên gọi này.

Muốn bảo vệ nước thì trước tiên nhất định phải bảo vệ nhà (không có nhà thì làm gì có nước!). Muốn bảo vệ nhà thì nhất định phải bảo vệ thân (không có thân cũng là không có nhà rồi), cho nên nhà Nho dạy người: “Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc”, đây là có trình tự nhất định. Hàm nghĩa của pháp biểu trưng Thiên Vương là làm tròn phận sự. Một người sinh đến thế gian này có chức trách của họ. Trong giáo dục cổ đại Trung Quốc nói “ngũ luân, thập nghĩa”.

Ngũ luân, luân là nói thân phận, địa vị của chúng ta. Bạn ở trong xã hội này, bạn là thân phận gì, địa vị gì, đây gọi là luân.

Nghĩa tức là nghĩa vụ, là cái mà bạn cần phải làm. Ví dụ bạn ở gia đình, thân phận của bạn là cha, nghĩa vụ của bạn chính là từ ái, bạn phải yêu thương con cái của mình, bạn phải yêu thương gia đình mình, đây là chức trách của bạn. Thân phận của bạn là con cái, nghĩa vụ của con cái là phải tận hiếu, “phụ từ tử hiếu”, anh nhường em kính. Thân phận là anh thì phải hữu hảo thương yêu các em của bạn. Thân phận là em thì phải tôn kính đối với các anh.

Vào thời xưa, những giáo dục này vô cùng được xem trọng, đây là căn bản của làm người. Thế nhưng ngày nay trong giáo dục hiện đại không còn nữa, trong nhà cha mẹ, người lớn không dạy, trường học cũng không nói, xã hội cũng không bàn, thế là thiên hạ đại loạn. Loạn như thế nào vậy? Luân thường loạn mất rồi! Người sống ở thế gian này chỉ ham muốn thọ dụng về vật chất, thế thì có khác gì so với cầm thú? Người khác với cầm thú chính là được tiếp nhận giáo dục của bậc thánh hiền. Giữa người với người có thể tương thân tương ái, chung sống hòa mục, đây là thành quả của giáo dục. Nhưng hiện nay không có người dạy, trong Phật pháp còn có một ít. Nói thật ra, hiện nay lời giáo huấn của Phật Bồ Tát, lời giáo huấn của tổ sư đại đức cũng dần dần bị quên lãng. Tuy hình tượng còn đó, nhưng ý nghĩa không có người biết. Cho nên hộ trì chánh pháp, trước tiên phải hộ trì chính bản thân chúng ta, “tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ bi”. Nhà Phật nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”, phải bắt tay từ chỗ này. Tâm của chúng ta không chân, không thành, lừa gạt dối trá, đây là tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Tuy trước mắt có thể được một chút lợi nhỏ, nhưng quả báo ở địa ngục. Thật không đáng!

Hôm qua ở Bắc Kinh, có người điện thoại cho tôi, nói là ở Đông Bắc có một số người xuất gia giả mượn danh nghĩa của tôi để quyên góp (nghe nói quyên được không ít tiền, khoảng vài ba triệu), và nói rằng tôi muốn đến bên đó xây đạo tràng và về bên đó để truyền giới. Vị pháp sư này tôi không biết, ông ta có thần thông chăng? Thần thông cũng làm sai rồi! Tôi không có cái ý nghĩ này, tôi cả đời không có đạo tràng của riêng mình, cả đời đều ở đạo tràng của người khác. Tôi năm nay 73 tuổi rồi mà còn muốn xây đạo tràng, đâu có cái chuyện ngu si này? Cả đời tôi không làm trụ trì, không truyền giới, học theo Ấn Quang pháp sư, không đi quyên tiền người, không đi hóa duyên với người, mấy chục năm như một ngày,đâu có chuyện đến tuổi về chiều còn làm việc hồ đồ này. Cho nên, hy vọng đồng tu các nơi phải hiểu rõ, phải sáng tỏ, không để bị người ta lừa gạt. Phàm là người đặt điều sinh sự, các bạn đem tiền đi cúng dường là cúng dường cho họ, chứ không liên quan gì đến tôi. Tôi ở nơi này, đồng tu các nơi từ hải ngoại đến hầu như ngày nào cũng có. Tiền mà họ cúng dường cho tôi, ngay cả phong bì tôi còn không nhìn đến, thảy đều chuyển giao cho thôn Di Đà, tôi cũng không biết trong phong bì đó có bao nhiêu tiền, do họ mở phong bì ra, do họ xử lý. Cho nên, hy vọng các vị đồng tu hiểu rõ, không nên bị người lừa gạt. Tôi không có chỗ để dùng tiền, tôi cần tiền để làm gì? Cái gì tôi cũng không cần. Hy vọng mọi người giữ tâm tốt, làm việc tốt là tốt rồi.

Người học đạo, đặc biệt là người học Phật, học Phật là học giác ngộ, học chân thành, học thanh tịnh, học bình đẳng giác, học từ bi. Từ bi, việc đầu tiên là bạn phải yêu chính mình, phải gìn giữ thiện tâm, gìn giữ thiện hạnh của mình, vậy mới gọi là hộ trì chánh pháp. Bảo vệ như thế nào? Bắt tay từ đâu vậy? Tôi thường nói, nhất định buông xả ý niệm tự tư tự lợi, buông xả ý niệm khống chế, chiếm hữu đối với tất cả người, tất cả sự vật, thì tâm của bạn liền thanh tịnh, tâm chân thành, chân tâm của bạn liền hiển lộ. Nếu như còn có một mảy may cái ý niệm này thì bạn đã sai rồi, tâm mà bạn dùng là vọng tâm, là giả dối, không phải chân thật. Phật Bồ Tát dùng tâm thuần chân đối với tất cả người, tất cả sự, tất cả vật, “tâm thuần chân, tình thương thuần chân, lợi ích đại chúng thuần chân”. Tại sao các Ngài làm như vậy? Các Ngài đã giác ngộ, đã sáng tỏ rồi, tất cả chúng sanh là chính mình.

Có một số người muốn tôi viết chữ cho họ, tôi cũng thường hay viết, viết một câu khẳng định, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là chính mình, người này chính là Phật Bồ Tát. Phàm phu không biết chân tướng sự thật này, trong đây chia ra mình, chia ra người, làm những việc hồ đồ, tổn người lợi mình. Tâm mê hoặc làm việc hồ đồ, đây gọi là phàm phu. Người không biết chân tướng sự thật, Phật ở trong kinh điển thường hay cảm thán là “kẻ đáng thương hại”. Loại người nào đáng thương vậy? Loại người không biết chân tướng sự thật là đáng thương. Cho nên hộ trì chánh pháp, việc đầu tiên phải biết chân tướng sự thật, phải hộ trì tánh đức của mình. Trong đời sống thường ngày, đối nhân - xử thế - tiếp vật phải thật sự làm được tròn phận sự, trách nhiệm. Chư Phật Bồ Tát đã làm mẫu mực tốt nhất, mô phạm tốt nhất cho chúng ta.

Thứ hai, Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương.

Phương Nam là tượng trưng trí tuệ trong sáng. Thiện Tài đồng tử 53 tham vấn, phương hướng đều là ở phương Nam. Phương Nam đó không phải là phương hướng thật sự, không phải phương hướng Đông – Tây – Nam – Bắc, mà là phương hướng của trí tuệ. Trong ngũ hành, phương Nam là hỏa, hỏa tượng trưng cho sáng sủa. Thiện tri thức sống ở đâu vậy? Sống ở nơi sáng sủa đó, cho nên mỗi vị thiện tri thức đều ở phương Nam. Chúng ta phải hiểu rõ đó không phải là phương Nam thật sự. Nơi mà một người có trí tuệ cư trú thì nơi đó gọi là phương Nam, đây là ý nghĩa này.

Tăng Trưởng Thiên Vương, bạn thử nghĩ, tên của Ngài là hy vọng trí tuệ của chúng ta tăng trưởng mỗi ngày, là ý này. Đây là hộ trì chánh pháp.

Đông Phương Thiên Vương cầm trên tay là cây đàn Tỳ Bà, là pháp biểu trưng, hoàn toàn không phải Ngài ưa thích ca hát, chúng ta đừng hiểu sai. Đây là đại biểu cho ý gì vậy? Đại biểu cho ý nghĩa trung đạo (Nho gia gọi là trung dung, nhà Phật gọi là trung đạo). Tỳ Bà là nhạc cụ dây, chúng ta biết dây chùng thì đàn không ra tiếng, nếu căng thì nó sẽ bị đứt, nên phải chỉnh đến vừa đủ, chính là nói với chúng ta, đối nhân - xử thế - tiếp vật phải làm đến vừa đủ tốt, không nên quá mức, cũng không nên bất cập, phải biết trung đạo, phải dùng trung. Trung thì mới hòa, không trung thì liền bất hòa; hòa mới có thể hợp tác, hòa hợp mà! Bất hòa sao có thể hợp tác được? Cho nên nó biểu thị cái ý này.

Thiên Vương Nam Phương cầm trên tay là kiếm. Kiếm biểu thị cho trí tuệ. Kiếm tuệ đoạn phiền não, là lấy ý nghĩa này.

Thiên vương phương Tây, phương Bắc giảng ra là phương pháp, cách thức làm thế nào có thể đạt được hộ pháp, làm tốt công việc hộ pháp, làm thế nào khiến trí tuệ của mình tăng trưởng. Phía dưới dạy cho chúng ta phương pháp cụ thể.

Thiên Vương phương Tây gọi là Quảng Mục. Bạn thử nghĩ cái ý này, Quảng mục là dạy chúng ta xem nhiều, người hiện nay gọi là tham quan, xem nhiều.

Thiên Vương phương Bắc là Đa Văn.

Hai vị Thiên Vương này dạy chúng ta phải xem nhiều, nghe nhiều, phải hiểu biết nhiều.

Mấy hôm nay, ủy ban tôn giáo Singapore tổ chức triển lãm liên hiệp chín tôn giáo. Điều này trước đây chưa từng nghe thấy bao giờ, trên toàn thế giới đây có lẽ là lần đầu tiên. Chúng ta có cơ hội rất thuận lợi tiếp xúc được đối với từng tôn giáo. Chúng ta xem nhiều, nghe nhiều, nhận thức nhiều, hiểu nhiều về họ thì mới có thể hòa mục hợp tác, xã hội mới tốt lành hòa mục. Tôn giáo khác nhau, chủng tộc khác nhau, chúng ta làm sao thật sự thực hiện được tôn trọng lẫn nhau, kính yêu lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng tồn tại phát triển. Singapore đã thực tiễn theo đường lối này rồi. Mấy hôm nay có các đồng tu giảng kinh, nhưng tôi không có cách gì đi nghe được, do tôi phải đi xem tất cả các tôn giáo để hiểu nhiều về họ, nhận thức nhiều về họ, đồng thời chúng ta cũng giới thiệu Phật giáo cho họ. Đây là giáo dục, giáo dục tôn giáo.

Xã hội là đa nguyên, biến hóa khôn lường. Quảng Mục Thiên Vương cầm trên tay là rồng, hoặc giả là cầm rắn, rồng rắn đều giống nhau. Rồng, rắn biểu thị cái gì vậy? Biểu thị biến hóa, thiên biến vạn hóa. Đây là nói rõ xã hội thiên biến vạn hóa, bạn phải thấy rõ ràng. Trong biến hóa còn có nguyên lý, nguyên tắc bất biến. Trên một tay của Ngài cầm rồng, trên tay kia cầm viên ngọc châu. Viên ngọc châu đó chính là nguyên tắc bất biến, phải nắm cho vững vàng thì bạn mới có thể ứng phó với xã hội nhiều biến đổi. Đây là lấy cái ý nghĩa này, bạn nói xem, hay biết bao!

Bắc phương Thiên Vương cầm trên tay là cái lọng. Lọng đại biểu cho gì vậy? Phòng ngừa ô nhiễm! Bạn tiếp xúc xã hội đa nguyên biến hóa, dứt khoát không được ô nhiễm, ô nhiễm là sai rồi. Ở trong xã hội phức tạp, gìn giữ thanh tịnh, bình đẳng, giác, lọng là lấy ý nghĩa này. Đây gọi là hộ pháp. Không phải bảo chúng ta không tiếp xúc, mà sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài giữ vững sự thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi của mình, quyết định không bị ô nhiễm, đó là thật sự biết hộ pháp.

Sao gọi là ô nhiễm vậy? Tự tư tự lợi, tổn người lợi mình, tham sân si mạn, những ý nghĩ này là ô nhiễm. Chúng ta ở trong tất cả hoàn cảnh nhân sự, trong tất cả hoàn cảnh vật chất, vĩnh viễn xa lìa những thứ ô nhiễm này thì tâm của bạn mới thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì sinh trí tuệ, như vậy mới có thể thật sự hộ trì chánh pháp.

Chánh pháp, quí vị nhất định phải biết, Phật pháp là chánh pháp. Cái ngoài Phật pháp có phải là chánh pháp không? Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Người viên mãn thuyết pháp thì không có pháp nào là không viên mãn”. Trong kinh Đại Thừa cũng thường nói: “Có pháp nào không phải là Phật pháp? Giác ngộ rồi thì mỗi pháp đều là Phật pháp”, cho nên thường nói Phật pháp rộng lớn vô biên, “Phật pháp vô biên”. Nếu như bạn nói rằng Cơ Đốc giáo không phải Phật pháp, vậy Cơ Đốc giáo chính là ranh giới của Phật pháp, nếu có ranh giới rồi, làm sao có thể nói vô biên được? Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo …, tối hôm qua ở chỗ chúng ta là Do Thái Giáo giảng kinh, hôm nay đến lượt Bái Hỏa Giáo giảng, nếu như nói đó không phải Phật pháp, vậy Phật pháp đã có giới hạn rồi,phật pháp sao có thể nói là vô biên được? Phật pháp là vô biên, sau đó chúng ta mới biết, tất cả mọi tôn giáo, tất cả mọi chủng tộc thảy đều là Phật pháp.

Ý nghĩa của Phật là giác ngộ. Bạn biết minh bạch, biết rõ ràng rồi thì liền gọi là Phật pháp; bạn chưa có biết rõ ràng, đó gọi là pháp thế gian. Kinh điển Phật giáo bày ngay trước mắt chúng ta, bạn không hiểu rõ, không sáng tỏ thì đây không phải Phật pháp. Cho nên đối với người mê hoặc không hiểu biết hãy hỏi họ một câu, pháp nào là Phật pháp? Không có pháp nào là Phật pháp. Giác ngộ rồi thì mỗi pháp đều là Phật pháp. Người giác ngộ không có phân biệt, không có chấp trước, không có vọng tưởng. Có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì không có pháp gì là Phật pháp. Xa lìa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì mỗi pháp đều là Phật pháp. Đây là Phật ở trong kinh Đại Thừa thường nói, chúng ta phải biết.

Chúng ta ngày nay bố thí cúng dường tôn giáo khác, có rất nhiều người lấy làm lạ. Tại sao họ lấy làm lạ vậy? Họ là phàm phu, họ không có Phật pháp, họ không hiểu Phật pháp.

Có rất nhiều người hỏi tôi: “Pháp sư! Tại sao thầy đem số tiền này cúng dường những tôn giáo khác vậy? Tại sao thầy không cúng dường Phật giáo?”.

Tôi bảo: “Tôi không có cúng dường tôn giáo khác, là tôi cúng dường Phật giáo”.

Họ nói: “Rõ ràng đó là Hồi giáo, Islam giáo, Ấn Độ giáo”.

Tôi tiếp: “Đó đều là Phật giáo, vì bản thân bạn chưa thấy rõ ràng, thảy đều là Phật giáo. Ở trong Phật giáo có tông có phái, bạn có biết hay không?”.

Họ trả lời: “Dạ biết”.

Phật giáo có mười tông phái, đó đều là tông phái của Phật giáo. Họ tôn thờ Thần, tôn thờ Thượng Đế, trong đó đều là hóa thân của chư Phật Như Lai. Nhà Phật chẳng phải thường nói, cần dùng thân gì để độ được thì các Ngài liền dùng thân ấy, bạn thử đọc Quan Thế Âm 32 ứng thân trong Phẩm Phổ Môn xem. Cần dùng Cơ Đốc giáo mà độ được, Ngài liền hiện thân Cơ Đốc Giáo; cần dùng thân Thượng Đế mà độ được, Ngài liền hiện thân Thượng Đế, đều là chư Phật Như Lai. Trong kinh Vô Lượng Thọ có một câu nói: “Tất cả đều thành Phật”. Tất cả này có bao gồm người của các tôn giáo khác không? Thảy đều bao gồm.

Tất cả đều thành Phật, ý nghĩa này sâu rộng biết bao, viên mãn biết bao. Tâm lượng nhỏ chia ra ta, chia ra người, bạn vĩnh viễn không thể thành tựu. Không những chứng quả bạn không có phần, mà khai ngộ cũng không có. Tự mình đã làm chướng ngại cho chính mình. Chúng ta cần phải giác ngộ, cần phải hiểu rõ.

Tốt rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây.

A Di Đà Phật!

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (tập 17)

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore

Thời gian: Năm 1999

Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hương. Phật tử Diệu Hiền.